Khuyến Nữ Hồi Tâm Kinh




Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ


 Khuyến-Nữ Hồi-Tâm Kinh 


DIÊU-TRÌ KIM-MẪU




Thanh-Tịnh-Đàn

17-1 Kỷ Hợi











 LỜI TỰA

  
      Chị em nữ phái Tu rất nhiều, mà ít được những quyển Kinh toàn vẹn dạy về TU từ bậc Hạ, Trung, chí đến Thượng Thừa.

      Kinh rất nhiều, mà phần đông dạy chung nam nữ; lại lời lẽ cao thâm, người nữ lưu ít học khó mà hiểu hết nghĩa Kinh. Xem Kinh rất nhiều, nhưng không đoạt lý.

      Rất may thay, Đức DIÊU-TRÌ KIM-MẪU Vô-cực Từ Tôn thấy điều khuyết điểm, sắc lịnh cho Đức Huê-Linh Bồ-Tát hạ điển lành giáng bộ Khuyến-Nữ Hồi-Tâm Kinh dạy chị em nữ phái học Tu từ bậc Hạ, Trung, chí Thượng.

      Bộ Kinh nầy gồm nguyên ba quyển: Nhứt, Nhì, Tam, để dạy người đàn bà Tu trong ba cấp.
      Lời lẽ thông thường, chỗ dạy cao siêu, câu văn tao nhã, mà rất cảm động thay!

      Nể lòng Đức Mẹ, tỏ dạ con hiền, chị em thử lấy xem qua, sẽ hấp thụ đặng nhiều bổ ích.

      Vậy chúng tôi thừa hành ấn tống để hiến chị em. Xin chị em đừng phụ tấm lòng, xem qua mà học hỏi, cho đặng trổi bước tinh thần, để đến ngày nợ mãn, căn Tiên, thoát ly trần cấu, trở lại cựu ngôi, thân nương động bích, mình ngồi tòa sen… (Cười…cười…)

        Kính tựa,
        Đại-Đức: Thiên-Huyền Cực-Tiên
        (Phan-Văn-Vĩnh)





“Thanh-Tịnh-Đàn” – Tý thời ngày 17-1 Kỷ Hợi

Lê-Sơn Thánh-Mẫu


Thi:
Hình-nhi thượng-học, pháp-tân khai,
Môn đệ gắn tầm, dạ chớ sai,
Hữu dụng ngày mai, ra giáo chúng,
Chớ đừng bỏ dỡ, đọa ngày mai.
* * *
Trên “Càn-Cung”, tròn bao Vũ-Trụ,
Dưới “Khôn-Âm”, hấp thụ giao hòa,
Giữa “Âm-Dương”, hiệp người ta,
Đông “Nhựt”, Tây “Nguyệt” đó là “Ngũ-Linh”.

Đó là hiện, Bóng Linh “Vô-Cực”,
Chánh “Thiên-Đồ” Bửu-Đức “Cao-Thiên”,
Lộ ra tối thượng Huyền-Huyền,
Phục nguyên Ngươn-Thỉ, Cao-Tiên điềm lành.



Đại-Đức Diệu-Giác    Biên khảo

KHUYẾN NỮ HỒI TÂM KINH
Tiểu Thừa


Thi:
DIÊU động thương con giáng điển đồng,
Bửu TRÌ cam lộ, rưới ân hồng,
Thiên KIM nan phục, kỳ nhu thể,
MẪU giáng khuyên con dựa cửa “Không”.


        Mẹ mừng các con nam nữ.
        Nơi Thượng-Giới Tây-Vương luống trông con thành chơn về bái yết, nhưng chẳng đặng mấy con chứng quả Liên Đài, cùng thiếu người thiện tâm học Đạo, cho nên Mẹ thọ sắc Thiên-Hoàng, ban quyển Kinh vàng, dạy nữ nhi hồi tâm tỉnh mộng.


Thi:
KHUYẾN khích các con nữ sĩ tài,
NỮ tài mau sớm lánh trần ai,
HỒI đầu phản bổn, tầm chơn đạo,
TÂM tự thiên nhiên, đến Bửu-Đài.

         Đại-Đạo khai ra đã thập-lục niên, thời gian ấy Phật Tiên hết lòng khuyên các con trần thế hồi tâm; nhưng quá vì muội mê nên không tường nẻo quang minh chánh đại. Vì vậy Mẹ giáng trần tả bút thành quyển Kinh “KHUYẾN NỮ HỒI TÂM” dạy đời, chỉ nẻo vinh hư khổ ư nhàn lạc. Khi quyển KHUYẾN NỮ HỒI TÂM KINH ra đời rồi, Mẹ muốn các con nữ trí phải giữ lấy Linh-Quang là phần sáng suốt vậy.
        Hỡi ai là gái quảng kiến cao văn, sau khi xem quyển Kinh KHUYẾN NỮ HỒI TÂM rồi, thì khá tìm cho ra nẻo trường sinh vĩnh viễn mà phục thế hồi chơn, lai đáo Thiên Cung bái yết Mẫu-Hoàng. Đó mới thiệt nữ tài trí tri cách vật. Các con tua nhớ lại, từ khi Đại-Đạo phát sanh, Mẹ đổ biết bao nhiêu giọt lụy dưới trần. Nói tóm lại, chẳng khác nào một trận mưa chan rưới cho thảo mộc trong thời đại hạn. Nhưng qua trận mưa rồi, thì cây héo cành khô, các con đành quên lời vàng tiếng ngọc!
            Nay là thời kỳ thành Đạo, nếu các con nữ trí nào đoạt được vị Kim-Tiên, là con hiếu thuận của Mẹ già; khác nào con ấy múc lại những giọt lệ kia giùm Mẹ, đổi vẽ buồn của Mẹ thành nét hân hoan.
        Mẹ quá thương nữ nhi vẫn còn mờ mịt, nào biết tìm mục đích Tu-Chơn đâu! Thời kỳ nầy, Đạo phải đến bực thông minh tấn hóa, phần nữ nhi phải còn lo ôn cố Đạo-Đức, Hạnh Trinh, học cho thông lý, làm cho rồi phận, thì mới đặng kết quả Đại-Đạo Thiên-Khai.

Thi:
Lời châu tiếng ngọc, dỗ con khờ,
Diêu-Điện Mẹ nhìn, vẫn ước mơ,
Muốn trẻ gom về, cùng gặp mặt,
Mới là thỏa dạ, nhớ con thơ.
Hựu:
Con thơ đừng dại, muốn mê trần,
Khá biết Đạo Trời, lánh khổ tân,
Diêu-Điện từ xưa, hằng lệ nhỏ,
Các con bao nở, mến mê trần.
Hựu:
Mê trần: chịu đọa, mất Linh-Quang,
Mờ ám mị ma, dẫn lạc đàng,
Khổ hải ba đào, trôi phận trẻ,
Sao còn nỡ để, mất Linh-Quang?
Hựu:
Linh-Quang một điểm, xuống trần hồng,
Muôn kiếp xa lìa, Mẹ lắm trông,
Con biết khổ đời, sao lại mến?
Làm cho mất cả, trí minh-thông.
Hựu:
Minh-thông một điểm, Đạo cần lo,
Đoạt đặng ngôi Tiên, mới phải cho,
Giải thoát qua rồi, cơn Tứ-Khổ,
Thì mau cầm lái, rước đưa đò.
Hựu:
Đưa đò rước khách, lại Tây-Phương,
Phải biết Tây-Vương, lắm nhớ thương,
Đem lại Linh-Quang, về vị cũ,
Bia tên nữ liệt, sử thanh bường.
Hựu:
Thanh bường hưởng thú, cảnh Thần Tiên,
Vĩnh, Thọ, Sanh, linh-chiếu Đạo-Thiền,
Trẻ dại nỡ gây, đường tội lỗi,
Để cho dạ Mẹ, chịu sầu riêng.

Bài:
Mười sáu năm: hoằng khai Đại-Đạo,
Thầy muốn con hiểu thạo lý chơn,
Lời vàng Thầy chỉ thiệt hơn,
1-       Bên con Thầy chuyển cây đờn không dây.
Dạy con trẻ đừng gây tội ác,
Chỉ trẻ thơ tạo tác phước lành,
Dạy con chớ vọng lợi danh,
2-       Dạy con đâu nẻo trược thanh cõi trần.
Phật, Tiên, Thánh lắm lần giáng thế,
Dìu dắt con, khuyên để nhiều lời,
Ngặt vì trẻ dại ham chơi,
3-       Đỉnh chung phú quý, chiều mơi say vùi.
Mẹ trông trẻ, ngậm-ngùi lệ nhỏ,
Thầy nhớ con, con có hiểu chăng?
Vì con Mẹ luống băn-khoăng,
4-       Tre già còn hỡi, khóc măng thảm sầu.
Khe khắc bấy, cơ mầu Tạo-Hóa,
Tráo chác thay, lòng dạ trẻ thơ,
Mới cười, vội khóc bâng quơ,
5-       Thanh minh bổng thấy lững lờ mây đen!
Phận liễu yếu, chặc then kín nẽo,
Kiếp hồng nhan, bạc bẽo lắm con,
Đào tơ trăng khuyết đến tròn,
6-       Tròn rồi lại khuyết, đâu còn ánh trong.
Con oằn-oại trong vòng tứ khổ,
Quanh mình con hầm hố dẫy đầy,
Cuộc đời khéo vẽ bằng mây,
7-       Bức tranh vân cẩu, hiệp vầy lại tan!
Sống như thế, nào an kiếp sống,
Sống đớn đau, ham sống ích chi?
Sống tranh văn-vật kịp thì,
8-       Sống mơ, sống mộng, sống vì miếng ăn!
Ôi kiếp sống! mua bằng khổ não,
Dùng máu tươi để tạo nó ra,
Bẻ bàng, thương xót sống qua,
9-       Sớm tàn tối nở, nghĩ ra thêm phiền.
Thấy nữ phái ngữa nghiêng lầm lạc,
Chia phe đàng, rải rác bốn phương,
Phân vân đời Đạo đôi đường,
10-     Ít con hiểu thấu tùng nương bóng Từ.
Cùng thọ giáo một Sư nam nữ,
Mà phái nam hiểu chữ tu trì,
Còn bên phái yếu nữ nhi,
11-     Dạt dào trôi nổi, li-bì nam kha!
Ham quyền tước, con xa nẽo chánh,
Mến bạc tiền, vai gánh tay bưng,
Thấy vàng, con rất vui mừng,
12-     Thấy Thầy, con lại dửng-dưng buồn rầu.
Con không hiểu vì đâu con có,
Con không tường: vàng, đỏ, trắng, xanh,
Chỉ ngay, con lại đi quanh,
13-     Chỉ con Cực-Lạc, ngục thành con lai!
Trong bốn chữ: Tửu, Tài, Khí, Sắc,
Nơi biển tình, con mắc phần nhiều,
Lưới tình vò rối trăm chiều,
14-     Lửa tình ngùn-ngụt đốt tiêu con khờ!
Còn nhỏ dại bé thơ chẳng hiểu,
Vọng sắc tình: trí thiểu, lỗi lầm,
Thì mau cải hóa hồi tâm,
15-     Tu hành tội trước chế châm ít nhiều.
Tu chẳng phải vẽ thêu nhiều chuyện,
Tu làm lành, trau luyện tánh tình,
Tu lo nhơn ái công bình,
16-     Tu kềm bổn tánh, điển linh chói ngời.
Tu chẳng quản sự đời, sự thế,
Tu quên mình trong Kệ, trong Kinh,
Tu gìn giữ dạ quang minh,
17-     Tu tâm, rèn tánh, thanh bình mới tu.
Tu lần dẹp ngút mù dục vọng,
Tu thương nghèo, không trọng kẻ sang,
Tu trừ phàm tánh mọi đàng,
18-     Tu sao bất động, không thanh, không mừng.
Tu học hỏi, mựa đừng tự phụ,
Tu Tam-Cang, Thường-Ngũ cho thông,
Tu dìu dắt kẻ giống dòng,
19-     Tu hành cứu độ Lạc-Hồng hồi quê.
Tu chỉ dẫn mọi bề tường lãm,
Tu chia sầu, sớt thảm với nhau,
Tu thanh trí, chớ lãng xao,
20-     Tu làm việc ích, chung nhau hưởng phần.
Tu vui vẽ, tinh thần hoạt bát,
Tu gìn lòng như thác nước trong,
Tu tham: thiên địa hiểu thông,
21-     Tu thành chánh quả mới mong độ đời.
Con nương náu trong thời tai biến,
Lần bước đi như kiến tha mồi,
Khoan dung, đại độ con ôi!
22-     Nghiệp trần con rán trả rồi nghe con!
Lời Mẹ dạy: lòng son ghi lấy,
Chỉ cho nhau nẽo quấy đường ngay,
Màng chi những tiếng chê bai,
23-     Lòng con đừng nãn, đắng cay Đạo trường.
Tánh ích kỷ là đường chấp ngã,
Nẽo vô minh tan rã thần, hồn,
Chim khôn lựa nhánh mới khôn,
24-     Con hiền lựa Chúa mà tôn mới hiền.
Phải bác ái, nên kiên Nhơn đạo,
Phải biết mình mới thạo Nhơn tâm,
Muốn người ra khỏi lạc lầm,
25-     Trước con phải hiểu Đạo thâm của Thầy.
Mẹ lần vẹt ngút mây án lộ,
Nơi mê đồ con cố gắng lên,
Phá lần chướng ngại chớ quên,
26-     Tâm đăng khêu sáng, không quên tự lường.
Nơi phong trần là trường công quả,
Mẹ khuyên con bươn-bả diệt trừ,
Dẹp lần hai chữ ý tư,
27-     Trực quang phát huệ, chơn-như vẹn gìn.
Không vị ngã là hình bác-ái,
Đem nụ cười đổi trái tiếng than,
Người đau thất chí, dỗ an,
28-          Thanh cao hy vọng, mở đàng người đi.
Phận của con nữ nhi yểu điệu,
Sự tề gia phải hiểu nên thông,
Khuyên răn nông chí con chồng,
29-     Tinh thần un-đúc, gái hồng liệt oanh.
Rung động trí mong manh trẻ dại,
Cảm hóa lần khuyên phải răn lành,
Hoàn toàn tâm tánh trẻ thành,
30-     Ấy nhờ công Mẹ dỗ dành bấy lâu.
Công thập-ngoạt, công sâu đền đáp,
Nghĩa hoài thai, nghĩa tạc bên lòng,
Sanh thành ơn tợ biển Đông,
31-     Tròn câu hiếu thảo mới mong nên người!
Cây có cội, con ôi mới sống!
Nước có nguồn, mới đọng thành sông,
Con người: trước có tổ-tông,
32-     Sau đoàn hậu tấn Hóa-Công sắp bày.
Thờ Cha Mẹ chớ sai tấc dạ,
Kỉnh Ông Bà nợ trả thanh-khâm,
Nuôi con nên vóc bao năm,
33-     Con nuôi Cha Mẹ tính thầm ngày đêm!
Ơn dưỡng-dục chớ thêm đừng bớt,
Nuôi Cha già chia sớt gánh sầu,
Mẹ lờ tóc điểm bạc đầu,
34-     Mắt mù, tai điếc, hay đâu đất trời!
Dưỡng nhi để hậu thời đãi lão,
Phận làm con phải báo ơn kia,
Họ Huỳnh danh nọ còn bia,
35-     Quạt nồng đấp lạnh, chẳng lìa chẳng lơi!
Con bất hiếu ắt Trời khó thứ,
Khinh Ông Bà, mắng chưởi Mẹ Cha,
Cổ kim khắp chốn ta-bà,
36-     Những người vô đạo đâu là sống dai!
Con thơ dại đâu hay thế cuộc,
Trẻ ngây khờ khó thuộc trường đời,
Khắc-khe khúc-mắc lắm nơi,
37-     Phù dung kiếp sống nở mơi chiều tàn.
Gái quốc sắc mỹ-miều diễm lệ,
Đôi môi son khác thể cánh hồng,
Thu-ba sáng tợ trăng trong,
38-     Tóc mây êm dịu, tuyết bông da ngoài.
Oanh thỏ thẻ, đẹp thay giọng trẻ,
Hoa hờn ghen vì lẽ thắm tươi,
Đoan trang ngọc thuyết hoa cười,
39-     Xuân xanh một thuở rõ người phong lưu.
Có nhiều trẻ phiền ưu số phận,
Thấy phấn son, gẫm hổ phận mình,
Tay chơn lem luốt bùn sình,
40-     Da đen, tóc rối, vóc hình nở nang!
Cùng chung bước một đàng với bạn,
Mà chị em hình dáng liễu hờn,
Trước nhìn sau ngắm thân đơn,
41-     Biết bao giờ được đẹp hơn mọi người?
Thoa mặt trắng, mua cười cho chúng,
Điểm môi hồng, đi nhún, đứng nhường,
Trông qua giống tạc hát phường,
42-     Con ôi, khá nhớ hoa hường có gai!
Chớ so sánh sắc tài tranh lấn,
Chớ thẹn thuồng hộp phấn cây son,
Rán nghe Mẹ giải ớ con,
43-     Kiếp đời mai một, vẫn còn lời châu.
Kìa trước mắt tang dâu thương hải,
Cảnh điêu tàn khiến phải rùn mình,
Thây nằm, máu chảy thật kinh,
44-     Chúng sanh xô-xát để gìn miếng ăn!
Say máu tươi quên rằng đau khổ,
Bãi chiến trường thi thố tài nghề,
So gươm giáo, ngựa giao kề,
45-     Giết nhau chém lẫn, thỏa-thê tấc lòng!
Nạn khói lửa má hồng ảnh hưởng,
Khổ chiến tranh muôn trượng đớn đau,
Nào ai là gái kiệt hào,
46-     Ra tay cứu nước đồng bào khuynh nguy.
Ai Trưng Triệu phò trì Việt Quốc,
Gan anh hùng, chống tấc giang san,
Gươm vàng đuổi kẻ lân bang,
47-     Kim ngôi tức vị, trị an biên thùy!
Hiếm chi kẻ sống vì tiếng trống,
Hiếm chi người ham vọng ngôi cao,
Để lường công của giống màu,
48-     Để gieo nạn khổ binh đao đầy trời.
Nào biết kẻ cùng thời chung sống,
Nào biết người một giống sanh ra,
Một vườn nhưng có nhiều hoa,
49-     Hoa lài, hoa dại, kể ra lắm đường.
Thứ hoa trước phấn hương bát ngát,
Mùi thơm bay tản lạc bốn phương,
Suy cùng: tài sắc thảm thương,
50-     Càng tươi-tắn lắm, càng thường mau phai!
Hoa quá đẹp, quá say lòng khách,
Bướm vãng lai, thóc mách đủ điều,
Ngọt ngào kiếm chuyện vẽ thêu,
51-     Bên tường hoa ủ, nét kiều lần suy.
Còn hoa dại, khả tri thân phận,
Ẩn núp mình, chẳng bận trần ai,
Không duyên, không sắc, không tài,
52-     Không tươi, không đẹp, không đày đọa thân.
Mẹ nhắc trẻ nên cân đôi nẽo,
Con toan lo mau kẻo ăn năn,
Ngang mày sấm chớp lửa giăng,
53-     Trở day khó thể vương lằn tai ương.
Biết sức ngựa đường trường ngựa chạy,
Biết tâm người cần phải suy tầm,
Bôn chôn, hấp tấp, lỡ lầm,
54-     Hận lòng một phút, ngàn năm vẫn còn!
Dãy đất Việt sông non chớn chở,
Trãi bao phen kẻ ở người đi,
Vương tôn mấy bực trị vì,
55-     Bất tài, bất lực, bất tri cơ Trời!
Nguyên do bởi đổi dời Vua Chủ,
Vì lương dân chẳng đủ lòng tin,
Rẽ chia bất phục dễ khinh,
56-     Nổi lòng công phẩn kẻ gìn quê cha.
Đạo chia rẽ cũng vì cớ ấy,
Lớn cậy quyền làm quấy tự tôn,
Khoe rằng mình đủ trí khôn,
57-     Dị đoan, mê tín, nhét dồn óc dân.
Lãnh nhiệm vụ cầm cân Thiên Địa,
Phận chưa tròn còn bịa chuyện đời,
Nào là lãnh lịnh mạng Trời,
58-     Cất Chùa, lập Thất, gạt người ngu si.
Cơn nước đục mấy khi cò béo,
Tính mưu gian cướp xéo giựt ngang,
Tiếng kêu thê thảm đầy đàng,
59-     Vì con quá muội, khóc than ích gì!
Khuyên nữ sĩ hiệp qui đoàn tụ,
Mạnh nhờ nhiều sức đủ làm non,
Đâu lưng giao cật sắc son,
60-     Đạo đồng nhứt dạ lo tròn chữ Tu.
Ngọc có vết nào lu vẽ trắng,
Vàng có hư cũng chẳng phai màu,
Thân sanh dẫu có gian lao,
61-     Dưới chân Thầy cũng chẳng sao mà sờn.
Dế rền rỉ, tiếng đờn trầm bổng,
Ve thảm sầu, hòa vọng bi ai,
Giựt mình Mẹ nhớ những ngày,
62-     Các con đùa giỡn bên ngai Mẹ già!
Ngày xưa ấy có xa là mấy,
Hiềm vì con chẳng thấy đó thôi,
Nhìn con Mẹ gẫm than ôi!
63-     Biết bao giờ trẻ cựu ngôi trở về?
Hay là trẻ say mê hằng bữa,
Quên Mẹ già dựa cửa ngóng con,
Trông con mắt đã mỏi mòn,
64-     Mà sao tin trẻ vẫn còn bặt tin?
Vén mây thẩm tận nhìn con trẻ,
Thấy con khờ như xé can tràng,
Con vui, lòng Mẹ nào an,
65-     Con buồn, lòng Mẹ bàng hoàng trẻ ôi!
Lớn chí nhỏ vì mồi khổ tục,
Nên lại qua, chen chúc lấn tranh,
Hay đâu kiếp số mỏng manh,
66-     Thác rồi, gấm vóc cũng đành lạnh thân.
Mẹ khuyên trẻ nương gần cửa Phật,
Con ngoảnh đi, lật đật tránh xa,
Nói toàn câu chuyện phồn hoa,
67-     Con nghe chăm chỉ, cho là sướng tai!
Con mảng đếm một hai ba bốn,
Tải huỳnh kim, một vốn mười lời,
Như vầy khổ lắm con ôi!
68-     Như vầy Mẹ hết còn đường khuyên răn!
Bàn chuyện Đạo, cho rằng không đúng,
Luận chuyện đời, khen trúng, khen hay,
Xác trần chôn chặt một ngày,
69-     Linh hồn luân chuyển đầu thai cõi trần.
Cây cỏ sống nhờ phân nhờ nước,
Con lo Tu, sau được thảnh thơi,
Thiên-Thai con được nghĩ ngơi,
70-     Mặc ai toan tính bán trời nuôi thây.
Hiệp sức cùng, kết dây liên ái,
Chung tâm đồng, oan trái phá tan,
Trước sau tấn thối một đàng,
71-     Đuốc Thầy soi rõ ngách hang hố hầm.
Con nhẫn lòng, âm thầm học Đạo,
Mẹ kiên tâm, chỉ giáo Đạo tràng,
Như vầy mới gọi con ngoan,
72-     Như vầy chẳng hổ lời vàng Mẹ phân.
Con ẩn dật chuyên cần trau tánh,
Đứa không Tu sớm tránh cho xa,
Gần đèn trẻ sáng nào ngoa,
73-     Gần bên mực đậm ắt là tối đen.
Mẹ chẳng nhọc bao phen giảng dạy,
Vì trẻ thơ nên phải khổ tâm,
Chừng nào con hết lạc lầm,
74-     Chừng nào Mẹ hết ngấm ngầm đau thương?
Cá không muối, cá ương là phải,
Con bất tuân, con cải Mẹ Cha,
Bao giờ con hiểu hơn Ta,
75-     Bao giờ con biết hơn Già nầy đây?
Chữ khôn dại, con gây tội ác,
Điều dại khôn, khó đoạt lý chơn,
Dại khôn, khôn dại Hạ-Ngươn,
76-     Phân chi đôi nẽo, khôn hơn dại nhiều.
Bớ những con thân yêu của Mẹ,
Rán vâng lời, Mẹ sẽ ban ơn,
Nằm sương, gội tuyết chớ sờn,
77-     Tròn câu âm chất, châu hườn hiệp qui!
Lời vàng đá con ghi chạm dạ,
Tiếng khuyên răn bương bả nghe theo,
Bỏ câu danh lợi bọt bèo,
78-     Tròn câu son sắc, rán trèo gai chông.
Bớ những khách bên sông bỉ-ngạn,
Chuyến đò cùng, khách rán theo Ta,
Thuyền trời Già sẽ đưa qua,
79-     Bên bờ giác ngạn, tránh xa trần hồng.
Gió hiu đưa, Thu không tiếng trống,
Chim vui ca, hát giọng thanh tao,
Ngàn năm Tiên cảnh tiêu dao,
80-     Ngũ hồ, tứ hải nghêu-ngao dạy đời!
Con khinh thường những lời Thánh huấn,
Con nghe theo, tai đựng tai không,
Ngáp dài, xếp sách là xong,
81-     Đến chừng Mẹ hỏi, con không hiểu gì!
Rầy quở trẻ, mấy khi con chịu,
Trả lời vì: bận bịu gia đình,
Thì giờ chẳng đủ học Kinh,
82-     Thì giờ đâu trẻ lo gìn kim ngân???
Cả tiếng kêu trẻ Xuân còn thắm,
Những con còn say đắm mộng Xuân,
Trời Xuân hoa nở tưng bừng,
83-     Chim Xuân riu-rít lưng chừng mơ Xuân.
Tuổi Xuân đẹp không ngừng đâu trẻ,
Thời Xuân tươi, Xuân lẹ làng qua,
Xuân qua, thắm thoát Xuân già,
84-     Xuân già kết liểu, Xuân hoa héo tàn!
Xuân héo tàn, Xuân càng sầu chán,
Xuân bạc đầu, Xuân ngán cho Xuân,
Ngoảnh đi, ngoảnh lại ngập ngừng,
85-     Ngập ngừng ướm lệ, ôi Xuân đau lòng!
Trống khải ngộ hư không đổ nhịp,
Chuông giác mê liên tiếp gọi người,
Sau người vẫn hé miệng cười,
86-     Kìa hoàng hôn tắt, quê người còn xa!
Khan giọng gọi tài hoa lỗi lạc,
Bốn phương trời rải rác đó đây,
Linh đinh góc biển chân mây,
87-     Phong trần lăn lóc, ốm gầy thân sanh!
Phường thế tục lấn tranh mõi mệt,
Gót giang hồ đã hết sức đi,
Bên trời thiên lý nghiệm suy,
88-     Sống rồi lại thác, lo chi thêm phiền.
Bóng trăng suông ngoài hiên chênh chếch,
Điểm sao mai sắp hết ánh trong,
Vẳng nghe những tiếng tơ đồng,
89-     Trông nhìn dĩ vãng mà lòng đớn đau.
Ngó trước mặt, một màu thâm thẩm,
Dòm lại sau, rừng rậm chông gai,
Chừng nào đi hết đường dài,
90-     Chừng nào mới biết được ngày thành công?
Hỡi hỡi trẻ Lạc-Hồng gái Việt,
Chịu ép đè, con biết cùng chăng?
Dây đời, dây Đạo trói trăn,
91-     Gánh đời, gánh Đạo, nặng oằn đôi vai!
Nếu lo một trong hai chẳng được,
Toan Đạo đời một lượt khó xong,
Giữ sao vẹn vẽ ngoài trong,
92-     Gìn sao trọn đạo mới hòng rảnh linh!
Phải nghiêm khắc với mình cho lắm,
Phải khoan dung kẻ đắm, người mê,
Từ-Bi vẹn vẽ mọi bề,
93-     Thương yêu giúp đỡ, vỗ-về vật nhơn!
Con tâm Đạo, chớ hờn chớ giận,
Làm sao người hiểu tận ý mình,
Kẻ nào khử ám hồi minh,
94-     Vội vàng chỉ vẽ cách gìn Đạo cao.
Mỗi ngày phải tự trau bổn tánh,
Hộ đồng bào bớt gánh tang thương,
Cao siêu Đạo-Pháp phi thường,
95-     Cũng không đắc quả nếu lường lao công.
Đã mang tiếng hết lòng thi thố,
Mà lại còn ghi sổ việc làm,
Giúp người, người giúp thì ham,
96-     Bằng không vay trả, túi tham khó đầy.
Cách làm ơn như vầy khó sánh,
Bằng không thi mà hạnh kiểm cao,
Tinh thần giúp kẻ giống màu,
97-     Trên đường tiến hóa dồi-dào linh căn.
Chí hy sinh khuyên răn con trẻ,
Dư của tiền, con sẽ cho người,
Tốn hao mua lấy tiếng cười,
98-     Mất con một chút, mà người vui thay!
Phật THÍCH-CA đắng cay chẳng nệ,
Muốn xả thân nào kể ngai vàng,
Bỏ Cha, lìa Mẹ băng ngàn,
99-     Một mình, một ngựa, canh tràng xuất gia.
Trãi gian lao, đạt-ta vẫn quyết,
Tìm Đạo mầu để biết lý chơn,
Đem ra truyền bá độ nhơn,
100-   Lời vàng khuyên giải thiệt hơn chánh tà.
Chúa GIA-TÔ muốn hòa nhơn loại,
Dụng đuốc lành hầu rọi thế gian,
Chỉ đường sanh chúng thông tàng,
101-   Lần tay Ngài vẹt bức màn vô minh.
Chẳng quản nhọc, quên mình vì Đạo,
Muốn cho người thọ giáo lời truyền,
Kẻ thương, kẻ chẳng để yên,
102-   Con hiền con cũng vì tiền bán Cha!
Đội vòng gai, chan hòa máu đổ,
Chịu tử hình, cam khổ chẳng kinh,
Trên cây thập-giá đóng đinh,
103-   Buồn rầu nhìn xuống chúng sinh lạc lầm!
Công đức ấy, muôn năm ghi sử,
Lòng hy sinh hỏi thử mấy ai,
Đông Tây Nam Bắc trong ngoài,
104-   Hỏi trang thục nữ dám đày thân không?
Kẻ làm ruộng gieo trồng cầy cấy,
Trông tới mùa, đổi lấy đồng tiền,
Bắt trâu làm việc lợi riêng,
105-   Ra đồng xới cuốc, cũng chuyên kiếm lời.
Ai là kẻ thương đời, thương vật,
Ai là người sớm cất túi tham,
Việc chung giúp ích nên làm,
106-   Lợi mình, người khổ mà ham nổi gì?
Không danh lợi mấy khi trẻ sống,
Chẳng tài tình, đồng rộng thế gian,
Vắng teo, nứt nẻ, khô cằn,
107-   Con người chẳng có, dinh-hoàn lạnh tanh.
Biết không tiền chúng sanh sẽ đói,
Vì chữ tài, nhơn loại vui cười,
Tiền làm cho trẻ đẹp tươi,
108-   Tiền nhiều, bạc đống, khiến người hiển vinh.
Tiền nuôi dưỡng thân sinh mập-mạp,
Tiền khiến người dung nạp tánh hiền,
Tiền tài phước số hữu duyên,
109-   Tiền kho lo giữ, chẳng phiền lụy ai.
Tiền với tài, ít thay kẻ sống,
Tiền nuôi người, nuôi mộng Nam-Kha,
Tiền sanh hy vọng hiệp hòa,
110-   Tiền nguồn hạnh phúc, suy ra lắm điều.
Tiền quyến rủ quá nhiều bạn hữu,
Tiền kêu người cố cựu tìm thăm,
Tiền làm hết cảnh tối tăm,
111-   Tiền xuôi phước chủ hết lầm từ đây!
Tiền với bạc: đầu dây nạn khổ,
Tiền xô người vào chỗ u minh,
Tiền tài thay đổi tánh tình,
112-   Tiền gây đau đớn cho mình lắm con!
Tiền thật trắng, thật tròn, thật bạc,
Tiền làm cho tan nát gia đình,
Tiền làm mất hết đức tin,
113-   Tiền làm chia rẽ kẻ mình yêu thương!
Tiền khiến người cơn thương hóa ghét,
Tiền khiến người khó xét cùng suy,
Tiền làm ủ dột sầu bi,
114-   Tiền không, túi trống, mấy khi người mừng!
Tiền khiến người đau lưng mỏi gối,
Tiền giục người đầu đội, tay bưng,
Tiền không, Cha ngó dửng dưng,
115-   Tiền còn, ôi Mẹ vui mừng xiết bao!
Tiền làm người hết đau hết mỏi,
Tiền có nhiều, tránh khỏi bịnh đau,
Tiền là giòng máu đồng bào,
116-   Tiền là huyết lệ giống màu thế gian!
Nếu lấy bạc mua đàng Chơn-Lý,
Được cũng nên, nhưng chỉ sợ e,
Lấy tiền che Phật khó che,
117-   Thác rồi khó lấy bạc xe mua hồn!
Vì chữ tài mà khôn mà dại,
Chước mưu gian hãm hại người lành,
Rẽ chia Cha Mẹ em anh,
118-   Cầm dao cắt ruột, sao đành trẻ ôi?
Đoạn cốt nhục, đoạn rồi khó kiếm,
Còn bạc tiền thì hiếm chi con,
Còn người thì bạc vẫn còn,
119-   Mẹ Cha khó gặp, bạc mòn đi đâu?
Nếu lấy bạc mà cầu trường thọ,
Thì Mẹ e rất khó đó con,
Vái Trời, vái Phật sắc son,
120-   Vái Thần, vái Thánh, giữ tròn bạc đây.
Nực cười trẻ khẩn mây khẩn gió,
Phật Thánh Tiên đâu có dư công,
Để làm những chuyện minh mông,
121-   Gìn kho cho trẻ, thỏa lòng con thơ!
”Đại phú do Thiên” cơ chuyển vận,
”Tiểu phú do cần” vẫn trí thông,
Kẻ lười chẳng muốn ra công,
122-   Mà sao giàu có phước hồng trời cho?
Cân Tạo-Hóa so đo từ chút,
Kiếp trước người tích súc đức nhiều,
Nên nay sung sướng đủ điều,
123-   Chớ nào Trời có bỏ chìu ai đâu?
Nếu người chẳng niệm câu Bác-Ái,
Thì bạc kia lần phải tiêu tan,
Phú gia sẽ hóa bần hàn,
124-   Mới nằm trên bạc vội vàng xin ăn!
Thạch-Sùng” nọ ai rằng bền chắc,
Vương-Khải” kia đông đặc bạc vàng,
Mà còn buộc miệng kêu than,
125-   Trời đây, đất đó, hai chàng đi đâu?
Con chớ có câu mâu sự thế,
Nghèo kêu gào mong để Trời cho,
Cửa cao, nhà rộng, ấm no,
126-   Đói ăn bánh vẽ, trước lo phận mình.
Trẻ bất tài đinh ninh quả quyết,
Mọi huyền vi, bí khuyết do Trời,
Có Trời thì mới có người,
127-   Có người thì mới có đời trẻ ghi.
Con đói, Mẹ từ bi cho gạo,
Con chẳng vo, chẳng gạo nấu ăn,
Ngồi nhìn bếp lạnh than rằng:
128-   Nghèo nàn đói khó, lỗi chăng tại Già?
Con lười biếng, trách Ta là trái,
Con vô minh, con lại kêu oan,
Đạo Trời, Mẹ giải rõ ràng,
129-   Không lo, không học, ngó ngàng uổng công!
Con biết ai trần hồng hưởng được,
Một kiếp sanh, trọn phước, trọn lành,
Con nên dốc chí tu hành,
130-   Số phận thay đổi, đắc thành về sau!
Trước cảnh biến, gươm đao, thây máu,
Mọi dữ lành, người Đạo điềm nhiên,
Cho rằng: ấy bởi cơ Thiên,
131-   Mình làm, mình chịu, nghiệp duyên lãnh phần!
Con biết vậy, phăng lần Chơn-Lý,
Là ngọn đèn dắt chỉ lối đi,
Nương theo hành động khó chi,
132-   ”Long-Hoa” con sẽ chứng vì phẩm ngôi!
Có con tưởng chẳng rồi rảnh chuyện,
Làm sao lo tu luyện Đạo Thầy,
Mãn mê chinh Bắc, phạt Tây,
133-   Túi tham không đáy, đâu đầy trẻ ôi!
Con cảm thấy cuộc đời bao quát,
Mà lại mong chiếm đoạt mộng vàng,
Bao giờ trên cõi dinh-hoàn,
134-   Các con nhi nữ rãnh rang tu trì!
Con sống đây chỉ vì hai chữ,
Có sanh ra, thì tử khó đâu,
”Thế thượng nan vô sự” mầu,
135-   ”Nhơn tâm tự bất kiến” sầu là đây!
Ai là kẻ thoát dây Sanh, Tử,
Ai người qua hai chữ Tử, Sanh,
Lăn qua lộn lại giựt-giành,
136-   Sống rồi lại thác, như cành cây khô!
Nơi nghĩa địa muôn mồ hiu quạnh,
Thây nầy nằm bên cạnh xác kia,
Lơ thơ vài đám cỏ chìa,
137-   Con so sánh phận, trau tria phận mình.
”Nhơn hữu thiện nguyện” gìn tâm Đạo,
”Thiên tất tùng chi” thạo lời nầy,
Việc lành là ý của Thầy,
138-   ”Đắc kỳ sở nguyện” rồng mây hiệp hòa.
Con phận gái quần thoa yếm vận,
Lời nói năng cẩn thận nghe con,
Nói như tép nhảy, pháo ròn,
139-   Nói như tát nước, đá mòn, két kêu.
Con nói toàn những điều tốt quá,
Mà việc làm trái cả lưỡi khua,
Ngôn, hành, tương phản hơn thua,
140-   Dối mình, ai dám a-dua theo mình.
Lời nói phải giữ gìn êm ái,
Nói vu hành lời trái chớ ưa,
”Họa tùng khẩu xuất” siêng chừa,
141-   Dối ngôn trong khổ để đưa người vào.
Con ngu muội tự hào rằng hiểu,
Cuộc phù-ba chứng triệu trường tồn,
Vong tha duy ngã dại khôn,
142-   Ác lai, ác báo, sanh dồn đớn đau.
Ôi thế sự! dạt dào huyết lệ,
Chịu ba điều trược uế ấu niên,
Khóc than rên xiết trầm duyên,
143-   Lỡ làng già yếu triền miên mộng huỳnh!
Tắt hơi tàn, giật mình tỉnh giấc,
Thịt xương kia cát đất chôn vùi,
Sống trong danh lợi mà vui,
144-   Thác nhìn linh thể bùi ngùi sầu thương!
Trách cao-xanh sao thường trêu ghẹo,
Kẻ nghịch thù lại khéo hiệp nhau,
Người yêu ly biệt hận đau,
145-   Đảo điên hy vọng lớn lao thay là.
Kìa cây cỏ bông hoa đua nở,
Vui hưởng chung ánh rỡ Thái-Dương,
Xanh xanh tươi tốt đầy đường,
146-   Lã lơi với gió, gió thường cợt hoa.
Rừng núi đồng xa xa biên biếc,
Cỏ hoa tươi chi xiết đẹp xinh,
Đâu đâu cũng thể chen mình,
147-   Cỏ lòn kẻ lá, lá rình vuốt hoa.
Mùa Đông lạnh, ngàn sa tuyết đống,
Trời u buồn, mây đọng, nước lười,
Cỏ hoa cũng vẫn vui cười,
148-   Gió dâu hiu-hắt, vẫn tươi như thường.
Chim trời kia yêu thương mạnh mẽ,
Buổi chiều hè se-sẻ liệng bay,
Soi mình mặt nước rẽ hai,
149-   Hát lên vài tiếng vui thay nắng vàng.
Mùa Thu đến, không gian buồn bã,
Lá lìa cành lả-tả tung rơi,
Mây buồn giăng bủa đầy trời,
150-   Chim xanh vô lự, khắp nơi đẹp lòng.
Xuân, Hạ đến Thu, Đông bốn tiết,
Chim, cỏ, hoa, nào biết chi buồn,
Vô tư linh động luôn luôn,
151-   Sông không trụ định với luồng cuồng phong.
Không đau khổ, lệ lòng không chảy,
Không vô tình, ruồng rẩy phong trần,
Tâm hồn ngây ngất lâng-lâng,
152-   Say sưa với cảnh chẳng cần lợi danh.
Không chiến đấu lấn tranh vất vả,
Không vương sầu tất cả cuộc đời,
Tự do thong thả con ôi,
153-   Ấy là hạnh phúc rõ đời Thần Tiên!
Lắm phen rồi Mẹ khuyên chay lạt,
Gốc gì đâu sanh-sát cấm ngăn?
Cũng tình liên lạc đồng bằng,
154-   Thú cầm vẫn thể linh căn Thượng-Hoàng.
Bởi chưng thú chẳng quang minh lắm,
Cần trau-tria rửa tắm nhiều giờ,
Với con là lũ em thơ,
155-   Nỡ nào nhìn nhỏ xác-xơ thân hình?
Tuy chẳng nói thân hình giống tạc,
Cũng biết ăn, biết khát, biết đau,
Phơi da, lóc thịt làm sao?
156-   Con ôi! Sao uống huyết đào đàn em?
Nhìn con thú sắp đem làm thịt,
Vây quanh mình đen nghịt những người,
Tay dao, tay búa, nói cười,
157-   Thú kêu thảm thiết, nhìn người van lơn!
Xin ai chút lòng nhơn bác-ái,
Thả tôi ra, tôi chạy thăm con,
Trẻ trông, trẻ sợ gầy mòn,
158-   Ơn nầy ghi tạc, trả tròn ngày sau!
Mặc cho thú lệ trào buồn bã,
Những người kia nghiêng ngã reo hò,
Vô tình hươi búa vo-vo,
159-   Biết đâu lòng thú quá lo, quá sầu!
Khi mạnh khỏe kê đầu làm việc,
Giúp đỡ người chẳng biết kêu la,
Dầm sương, giãi nắng, phơi da,
160-   Sống làm tôi mọi, thác già xẻ thây!
Rồng, cọp dữ nơi đây không sánh,
Người cầm dao giết đánh thú cầm,
Ăn ngon sướng miệng bao năm,
161-   Hờn kia, oán nọ, ngàn năm còn hoài!
Thượng-Đế sanh muôn loài vạn vật,
Chiết Chơn-Thần ẩn cất bên trong,
Bởi nên những kẻ ác lòng,
162-   Giết loài cầm thú, sân rồng tội căn!
Con nên hiểu mỗi lần giết thú,
Là con làm hại đủ Thượng-Thiên,
Sát sanh, hại vật nên kiêng,
163-   Ấy điều thứ nhứt dạy riêng năm lần!!!
Tự so sánh xác thân cái máy,
Mỗi ngày đi, vẫn chạy, vẫn xây,
Hao lần mòn mỏi hư trầy,
164-   Phải cần dầu mở chế đầy mới thông.
Muốn linh hồn “cõi không” siêu thoát,
Thì phải toan chay lạt mới mau,
Mỗi giờ luyện Đạo giồi trau,
165-   Nhẹ nhàng xác khí, ra vào thông thương.
Trong tâm trẻ vẫn thường sanh sản,
Nhưng cỏ cây khó hản lý chơn,
Làm sao Tâm Ý hiệp hườn,
166-   Đem ngôi Chí-Bảo đổi cơn hỗn nàn!
Khi còn ở trong hang sâu thẳm,
Tưởng đâu rằng rừng rậm núi cao,
ẩn vi mầu nhiệm xiết bao,
167-   Ra vào ánh sáng các màu đổi ngay.
Con hân hạnh biết ngày gặp Đạo,
Học CAO-ĐÀI truyền giáo nơi nơi,
Dị đoan mê tín con ơi,
168-   Khá nên dứt bỏ kịp thời trẻ thơ.
Con tu phải tôn thờ phụng bái,
Theo gương lành Phật dạy ngàn xưa,
Những điều độc hiểm khá chừa,
169-   Rửa lòng sạch sẽ, ngăn ngừa tà tâm.
Dụng lễ nghi lầm thầm khấn vái,
Gọi biết ơn lời phải Phật răn,
Chớ nên tư tưởng lố lăng,
170-   Cúng Trời, Trời cứu khỏi lằn tai ương!
Con chiêm ngưỡng, năm thường cúng tế,
Tổ-Tiên nào chực để ăn say,
Ấy là kỷ niệm một ngày,
171-   Nhớ người quá cố, ơn dày dưỡng sanh.
Nực cười trẻ tâm thành vơ vẩn,
Sợ tiền nhân lận đận cõi âm,
Giết heo, giết vật rầm rầm,
172-   Ấy là cội gốc của mầm trả vay!
Con hành Đạo hằng ngày đảnh lễ,
Xông hương trầm mà để làm chi?
Nhìn lằn khói cuốn từ-bi,
173-   Xét mình trong sạch, lo gì thiêng liêng.
Con khá nhớ: Tham-Thiền Tịnh-Định,
Giữ Tâm con thanh tịnh mới nên,
Suy tầm một việc chớ quên,
174-   Trí đừng xao xuyến làm nền tảng nghe!
Sáu giờ: sớm, chiều, dè dặt lắm,
Trước con lo rửa tắm sạch thân,
Ngọ thời: Định Trí lần lần,
175-   Bỏ ngoài thế sự cân phân việc làm.
Con phải muốn, phải ham mới được,
Đúng mỗi ngày, mực thước có chừng,
Chẳng nên bữa tập, bữa ngưng,
176-   Mới đi vài bước, chớ dừng chơn nghe.
Con sẽ gặp nhiều bề rất khó,
Con bền gan, trước nhỏ, lớn sau,
Ban đầu, trí rất lao xao,
177-   Nghĩ xằng, nghĩ bậy, chẳng rào, chẳng ngăn!
Nhưng nếu trẻ siêng năng Tịnh lấy,
Lần lượt con sẽ thấy diệu-huyền,
Trước con lựa vấn đề riêng,
178-   Dễ bề trong lúc Tham-Thiền gẫm suy.
Thí dụ: tưởng con quỳ bên Mẹ,
Lời dịu dàng, Mẹ sẽ khuyên con,
Trẻ nghe đôi mắt xoe tròn,
179-   Trên thềm Diêu-Điện nhiều con hầu kề!
Con ghi câu vỗ-về của Mẹ,
Con nhớ lời, con sẽ khắc tâm,
Ấy là một cách dạy ngầm,
180-   Con ngoan để dạ nẽo lầm trẻ ơi!
Trước con phải lựa nơi vắng vẽ,
Định Tâm-Thần, con Mẹ chẳng xa,
Quen rồi giữa chốn lại qua,
181-   Tham-Thiền cũng đặng, lựa là tìm nơi.
Khi thông suốt, con ơi khá nhớ,
Bóng Mẹ già, lần trở lần qua,
Mắt con trông giải Ta-Bà,
182-   Đen đen bằng thẳng, thật là lặng yên.
Trong bóng tối bỗng nhiên có tiếng,
Màn vô minh lần biến quang minh,
Muôn ngàn màu sắc đẹp xinh,
183-   Ấy là lúc trẻ cảm mình tiêu diêu!
Nhờ con bỏ những điều hạ giới,
Mà Chơn-Tâm vào tới Thượng-Thiên,
Tinh-Thần con khỏe khoắn liền,
184-   Phàm tâm nơi cõi Hạ-Thiên tạm ngừng.
”Phân minh: Động Tịnh” ưng vô tướng,
”Bất giác Long-Cung, không Nhứt-Thinh”
Long-Cung: Động Tịnh không hình,
185-   Bỗng đâu sấm nổ rập rình bên tai.
Khi Tịnh-Định thường hay yên lặng,
Thân như tờ, rất thẳng rất im,
Chơn-Tâm tiếng nhỏ như kim,
186-   Vang rền giác ngộ, công tìm thành công.
Được như vậy, mới mong đắc quả,
Đến bực nầy, con đã ung dung,
Ngao du võ trụ khắp cùng,
187-   Con vui trần thế, Diêu-Cung Mẹ cười!!!
Vậy mới gọi con người thục nữ,
Vậy mới tròn hai chữ Tu Tâm,
Các con nay đã hết lầm,
188-   Nêu gương hậu tấn kiếm tầm học thêm.
Nhìn lịch sử, khó kềm lệ đổ,
Thấy các con thêm hổ dùm con,
Đạo khai mười sáu Thu tròn,
189-   Mà con chẳng xứng làm con của Già!
Mẹ muốn con Long-Hoa hội diện,
Đoạt bảng vàng lưu tiếng sử xanh,
Phẩm ngôi con được đắc thành,
190-   Rạng mày nở mặt công sanh của Già.
Thế mới đáng mặt nhà đạo-đức,
Thế mới bồi công cực từ lâu,
Dạo chơi thế giới một bầu,
191-   Ngày vui cảnh Phật, đêm hầu bên Ngai!
Mẹ cùng con vui ngày gặp mặt,
Chiếc cầu vàng Mẹ bắc con đi,
Nương theo đuốc huệ Từ-Bi,
192-   Cây đà trổ trái rõ thì bao lâu.

(Hết phần thứ nhứt)




KHUYẾN NỮ HỒI TÂM KINH

Trung Thừa


Cơ Tạo-Hóa nhiệm mầu luật định,
Lý Vô-Vi đức-tín Đất Trời,
Hư vô chủ tể loài người,
1-       Cơ căn bất động, có đời đó con.
Ngôi tháp kia, bao tròn lớn rộng,
Có phải nhờ đất trống đó chăng?
Một cây cổ-thọ già cằn,
2-       Sanh ra do bởi mộng bằng sợi tơ.
Muôn loài vật đều nhờ Thiên-Đế,
Dụng Chơn-Thần hầu dễ biến sinh,
Tuần hườn biến hóa siêu hình,
3-       Càn-Khôn thế giới chương trình phải theo.
Ban sơ Thầy truyền gieo Bổn-Tánh,
Cho mỗi con phải lãnh một phần,
Trạng hình, vật chất, thể thân,
4-       Thâu vào giữ lấy bởi cần trường-sanh.
Linh-hồn chịu dỗ dành, bợ đỡ,
Vật-chất dùng hết cớ duy trì,
Tinh-Thần tan rã một khi,
5-       Xác thân, vật chất, còn gì nữa đâu?
Hình vạn loại mặc dầu có khác,
Mà Linh-Hồn giống tạc như khuôn,
Các con phải nhớ luôn luôn,
6-       Xã thân vật chất, phò khuôn Linh-Hồn.
Linh-Hồn vẫn trường tồn bất tử,
Xác thân hôi chớ giữ nghe con,
Một mai thân tục chẳng còn,
7-       Linh-Hồn nhập xác khác tròn tốt hơn.
Kim thạch cũng tuần hườn tấn hóa,
Chẳng nệ mình nuôi cả cỏ cây,
Đúng ngày Tạo-Hóa sắp bày,
8-       Trở hình thảo-mộc chẳng sai chẳng rời.
Loài sau nầy nuôi người, nuôi vật,
Công quả tròn, hạ vật hườn nguyên,
Thú cầm xã mạng đến phiên,
9-       Dưỡng nuôi giúp đỡ liền liền chúng sanh.
Linh hồn qua khí thanh Trung-Giới,
Chính Chơn-Nhơn ngự tại Thượng-Thiên,
Phàm nhơn là một nhánh liền,
10-     Của Chơn-Nhơn xuất, hạ-thiên ấy gìn.
Quanh mặt Nhựt, hành tinh bảy dãy,
Muốn chưởng ngôi người phải luân hồi,
Hoàn toàn tâm tánh trau giồi,
11-     Trọn lành, trọn phước, cựu ngôi trở về.
Có cay đắng: dễ bề phán đoán,
Có giang hồ: mới hản phong sương,
Có Tu kinh nghiệm mới tường,
12-     Đạo Chơn Chánh Giáo, con đường siêu sanh.
Thượng-Giới cảnh, Tiên-Thành muốn tới,
Diệt luân hồi thì mới thoát thân,
Dứt tâm tham dục năng cần,
13-     Khử trừ ám muội, đến lần quang minh.
Bởi buổi trước tự mình gây họa,
Nên kiếp nầy phải trả cho xong,
Huệ-Quang khá mở mới thông,
14-     Tham-Thiền thanh tịnh, hư không phản hườn.
Mẹ chỉ con rõ Chơn-Lý Đạo,
Luận giải rành máy Tạo chuyển xây,
Các con rán nhớ đoạn nầy,
15-     Hầu sau luyện tập thoát dây ái trần.
Con đã đọc lắm lần sách Đạo,
Học thuộc lòng Thánh-Giáo Thần Tiên,
Mà con đã hiểu căn nguyên,
16-     Lập thành võ trụ, trần duyên hiện tiền?
Ban sơ, Dương hiệp liền Âm điển,
Tánh cang nhu, biến chuyển Càn Khôn,
Điều hòa vi “Thái” trường tồn,
17-     Chơn linh dũng điệu, động dồn biến sanh.
Khi yên lặng biến thành lạnh, tối,
Lúc động lài sẽ đổi sáng quang,
Cảm giao hai lẽ rõ ràng,
18-     Nóng, hơi, đặc, lỏng, hoàn toàn bổn căn.
Bốn nguyên tố gọi rằng: Tứ-Đại,
Tánh hiệp hòa, âu phải biến sanh,
Phân ly, Tánh rã tan tành,
19-     Hiệp tan, tan hiệp, biến thành thế gian.
Trời là Đấng hoàn toàn linh-diệu,
Lý “Thái” ngôi, thông hiểu hữu vô,
Quản cai tuyệt đối vạn đồ,
20-     Vô tư, vô cảm, điểm tô muôn loài.
Lý Tạo-Hóa phân ba ngôi chánh,
Xét cho rành thêm nhánh thứ tư,
Tứ Nguyên: Thái-Cực ân sư,
21-     Tam Nguyên, âm thể, lý dư của đời.
Trước Thượng-Đế lập ngôi thứ nhứt,
Ấy là ngôi: Thái-Cực phân minh,
Động lai, dương hỏa hóa sinh,
22-     Hỏa là Thần đó: Chơn-Linh Thượng-Hoàng.
Thái-Cực Tinh, âm tan làm Thủy,
Thủy tức Tinh, chơn vị Diêu-Trì,
Hiệp hòa Thủy Hỏa chuyển vi,
23-     Bổn căn dương khí, tỏ thì Lý Chơn.
Thái-Cực, Động-Tinh: lần đôi Lý,
Ấy duyên do ngôi Nhị: Lưỡng-Nghi,
Thái-Dương, Thái-Âm nên ghi,
24-     Chủ Dương: Ngọc-Đế; Diêu-Trì phần Âm.
Đoạn mượn phép Âm Dương giao tiếp,
Điểm Chơn-Dương lần hiệp Thái-Âm,
Sanh ra hai khí chẳng lầm,
25-     Thiếu-Dương cùng với Thiếu-Âm rõ ràng.
Ngôi Tứ-Tượng hoàn toàn thành lập,
Bát-Quái-Đồ đặt sắp Hóa-Công,
Chơn-Hồn: bát phẩm biến thông,
26-     Chuyển luân hóa kiếp trần hồng đó con.
Hình Thái-Cực điểm tròn Đen nhỏ,
Tượng giữa Vàng, Trắng, Đỏ bao ngoài,
Điểm Đen chuyển vận xẹt ngay,
27-     Chia đôi mặt Trắng, phân rày âm dương.
Trung tâm Trắng có đường Đen khác,
Đứng thẳng lên, giống tạc lằn trên,
Cắt hai, phân nữa mỗi bên,
28-     Bốn phần rõ rệt, ngôi đền thứ Ba.
Tam Khí-Âm phân ra ba cấp,
Bất động ngôi, vốn lập nền nương,
Gây nên hỗn loạn lắm đường,
29-     Ấy ngôi hoạt động, thường thường động xa.
Ngôi dung hợp, điều hòa sanh hóa,
Lúc đầu tiên, tất cả lặng yên,
Tam Dương, ngôi Động chuyển Thiên,
30-     Âm Dương giao cảm, biến liền không gian.
Ba ngôi Âm rõ ràng Mẹ đẻ,
Ra các đời, con trẻ nhớ ghi,
Ngôi Ba, hợp lý Âm thì,
31-     Sanh ra vật chất, không khi nào lầm.
Ngôi thứ Hai, hiện lâm phàm đó,
Vật chất dùng sẵn có mà làm,
Vạn hình, vạn loại trần phàm,
32-     Tinh Thần, vật chất giữa làm mối dây.
Ngôi thứ Nhứt, liền gây kế tiếp,
Ấy Cha sanh: muôn kiếp Linh-Hồn,
Bảy ngôi Tứ-Tượng Càn-Khôn,
33-     Khí linh Trời Đất giúp dồn Thượng-Thiên.
Cơ Tạo-Hóa luân vi Bảy Vị,
Đại-La Thiên-Đế chỉ khác nhau,
Biệt riêng cá tánh dồi dào,
34-     Mỗi Vì sanh Bảy, Vị vào Lưỡng-Nghi.
Tại Lưỡng-Nghi, mỗi vì nảy nở,
Ra Bảy Vị ngụ ở Niết-Bàn,
Biến sanh tấn hóa mọi đàng,
35-     Hư không bảy cõi, bảy hàng Đại-La.
Cõi Hạ-Giới: phân ra bảy hạng,
Bảy Đại-La cai quản Thái-Dương,
Mỗi Vì săn sóc một đường,
36-     Thời Thần Thập-Nhị tùng nương phận hành.
Nơi hệ thống sẵn dành Thần Thánh,
Giúp công làm, mỗi nhánh, mỗi chi,
Huyền-Thiên Thượng-Đế mỗi Vì,
37-     Nam-Tào, Bắc-Đẩu, bốn Vì Thiên-Vương.
Huyền-Thiên mở riêng đường tấn hóa,
Trong Thái-Dương gồm cả hành tinh,
Gồm thâu Chưởng-Quản đinh ninh,
38-     Phật, Tiên, Thần, Thánh, giữ gìn từng ngôi.
Mỗi Vì lãnh trau giồi kiểu mẫu,
Phân Nam-Tào, Bắc-Đẩu hiểu rành,
Luân hồi, quả báo ngọn ngành,
39-     Thiên-Vương Tứ-Đại thi hành luật kia.
Con muốn biết phân chia Võ-Trụ,
Trước con nên học đủ thân sinh,
Luân hồi bảy thể đinh ninh,
40-     Trần hoàn ấy tại trong mình con kia.
Hơi, Đặc, Lỏng: khóa chìa xác thịt,
Tụ Khí-Tinh: tụ tích Phách con,
Nếu Thân mãnh vẽ mập tròn,
41-     Phách con giống tạc hình con đó mà.
Rút sanh lực hiệp hòa vía thể,
Mất Phách rồi, khó dễ sống dai,
Thâu Thần, Phách xuất ra ngoài,
42-     Giữ đừng động chạm, nạn tai ắt kề.
Xác mất Phách: mê mê, dại dại,
Trí lờ-đờ, phổi phải yếu lần,
Tim ngưng náo động kinh thần,
43-     Khí Tinh hình kết, luôn gần Đồng-Loan.
Phách xuất thân: hoàn toàn giảm lực,
Bởi chất sanh chuyển xuất không đều,
Thình lình tiếng động gọi kêu,
44-     Phách liền nhập xác: ấy điều nên kiêng.
Vì sực tỉnh, tim liền nhảy mạnh,
Mỗi cơ quan nhịp đánh quá mau,
Đồng-Loan cam chịu ốm đau,
45-     Hay là phải thác, làm sao cứu hồi?
Khi xuất ngoại, Phách ngồi bên tả,
Khí, Tinh, dùng: mượn cả người hầu,
ít nhiều, vô hại, mau lâu,
46-     Tùy nơi thọ cảm sức thâu của Đồng.
Quỷ muốn xuống trần hồng phá khuấy,
Do Đồng-Loan tánh quấy xấu xa,
Khí, Tinh trong Phách mượn ra,
47-     Thật hành môi giới, vẽ Ma dạy đời.
Vì ghiền thuốc mà người mạng thiệt,
Linh-hồn người theo riết nhơn sanh,
Bao trùm Vía một Khí thanh,
48-     Loanh quanh, lẩn quẩn để giành hít hơi.
Bởi không thế sống đời để hút,
Nên hồn theo xúi giục kẻ phàm,
Nhả hơi, phun khói tham lam,
49-     Nhập vào xác ấy để làm thỏa thân.
Có các vị Quan-Thần hộ mạng,
Biết hại nhơn nên rán chở che,
Đỡ ngưng, ngăn đón dặt dè,
50-     Chẳng cho hồn trược nhập đè Đồng-Loan.
Bảy bí yếu hoàn toàn của Phách,
Chuyển Luân-Xa ở cách sáu ly,
Thể Thân rẽ quạt mấy khi,
51-     Xoay tròn, quây mạnh, khác gì bánh xe.
Rút sanh lực vào che Phách Xác,
Phát sanh lực rải rác ra ngoài,
Thông thương Vía Thể lạ thay,
52-     Dây Thần-Kinh-Hệ lập ngay một cầu.
Tinh Khí tựu nơi đầu cái Phách,
Bí yếu “Thanh” thường vạch trong thân,
Bảy ngôi, tánh chất rẽ phân,
53-     Luân-Xa qui hiệp có phần nhiều hơn.
Nơi Xa-Luân qui hườn Sanh-Chất,
Ở Giái-Trung xẹt mất vào trong,
Hóa ra Năm-Lực thật đồng,
54-     Đi ngang trên dưới, cảnh Không, Thân ngoài.
Chưa tấn hóa, Bảy nơi hơi sáng,
Học Đạo rồi, hình dạng nở ra,
Lớn như mặt Nhựt chói lòa,
55-     Hào quang tươi tốt tỏa ra thân mình.
Nơi Lá-Lách, sáu hình Sanh-Lực,
Sanh chất cầu, rút chất Khí Thanh,
Hóa phân Thân-Thể lưu hành,
56-     Phát Nguyên-Tử khắp trong thành Xa-Luân.
Bảy Nguyên-Tử châu Thân rút bớt,
Còn Tử-Nguyên sắc lợt màu hường,
Chạy về bí yếu Nê-Hườn,
57-     Sắc thay luân chuyển theo đường Thần-Kinh.
Hết Sanh-Lực những hình Nguyên-Tử,
Do chơn lông tống khứ ra ngoài,
Hào quang thành tựu đẹp thay,
58-     Giúp người cường tráng, càng ngày càng tươi.
Luân-Xa bốn cánh, người mạnh khỏe,
Tại Vĩ-Lư thường vẽ Thập-Điều,
Dùng nuôi Sanh-Dục khó tiêu,
59-     Châu thân ấm áp, dẹp điều tình si.
Chủ Phàm-Nhơn rõ thì hiệu quả,
Lằn Lực-Sanh, nuôi cả óc người,
Hỏa-Hầu khởi tại Vĩ-Lư,
60-     Đốt đồ nhơ bợn, để trừ nạn tai.
Tại nơi Rún, trong ngoài mười cánh,
Nuôi ruột gan, dẫn mạnh máy thân,
Mở ra cảm giác bâng khuâng,
61-     Hay là hòa thuận, đo cân mọi điều.
Tại nơi Tim: sắc thiêu vàng sáng,
Mười hai tay giống dạng hoa sen,
Từ nơi Lá-Lách lên chen,
62-     Nuôi Tim giúp sức, bao phen nhịp hoài.
Theo Luân-Xa vòng ngoài chất sạch,
Rồi chảy vào huyết mạch nuôi thân,
Trở lên trên óc một phần,
63-     Cảm động trẻ khác, tránh trần đến Trung.
Nơi Yết-Hầu muôn trùng màu sắc,
Giống ánh trăng trên mặt nước sông,
Nhiều xanh, lóng lánh xa trông,
64-     Tím xanh Lá-Lách, phân đồng đôi câu.
Thứ xanh lợt, Yết-Hầu dung dưỡng,
Thứ đậm xanh sẽ thượng Nê-Hườn,
Chín trăm sáu chục cánh đơn, (960)
65-     Vận thêm sanh chất, phần hơn sức người.
Giữa Chơn-Mày vàng tươi chàm đậm,
Bí yếu nơi Vía thâm Nhãn-Thần,
Lớn nhìn ra nhỏ vật trần,
66-     Nhỏ hườn lại lớn, muôn phần biến nên.
Có Nhãn-Quang nhìn trên Trung-Giái,
Thấy linh hồn lại lại, qua qua,
Trông Trời, trông chẳng bao xa,
67-     Con hành lời Mẹ, rõ là lời chơn.
Màu Luân-Xa, Nê-Hườn trắng trắng,
Có mười hai cánh chẳng phía trong, (12)
Chín trăm sáu cánh ngoài vòng, (960)
68-     Tia Vàng pha lẫn chất Hồng sáng Xanh.
Nếu sáu bảy tựu thành một tụi,
Đụng nhau nơi lỗ mũi thông thương,
Dưới trên Thượng Hạ mở đường,
69-     Ra vào nhơ bẩn dễ thường trò chơi.
Bí yếu Sáu chẳng rời lỗ mũi,
Thì Xa-Luân bảy đổi hướng hầu,
Chạm nhầm cục hạch nơi Đầu,
70-     Kẻ trần tiếp xúc với cầu Hạ-Thiên.
Nếu bí yếu Bảy liền mở rộng,
Con ở trần, chẳng giống kẻ trần,
Xuất hồn khỏi xác bao lần,
71-     Làm chi Trung-Giái, nhập thân biết liền.
Sự hiểu biết trần duyên chẳng đoạn,
Ngày như đêm vẫn sáng như thường,
Định-Thiền đôi mắt chẳng vương,
72-     Mà đều hiểu rõ những đường đã qua.
Lớp Tinh Khí ngăn xa Phách Thể,
Giữ Vía không chớ để sớm gần,
Kết bằng Nguyên-Tử hồng trần,
73-     Hiệp nhau rất khít, sống cần chất Sanh.
Tứ-Đại-Vương góp thành tư tưởng,
Nhập một sanh: hình tượng Phách con,
Chung quanh mình Mẹ bao tròn,
74-     Lần lần rồi lại nhập lòn vào trong.
Ấy khuôn khổ trần hồng Thân Xác,
Hành phận xong rải rác mất đi,
Linh-Hồn lo lắng Hài-Nhi,
75-     Có khi lưu lại, tận thì Thất niên.
Tinh, Khí, Phách: sanh liền Thân trẻ,
Vốn rút trong Phách Mẹ hiểu chăng?
Xấu xa tươi tốt đều rằng,
76-     Do nơi tư tưởng Mẹ hằng ước mong.
Tại Phách đầu, xuất trong khi thác,
Dây Khí, Tinh, cột Xác dứt liền,
Phách màu tím vội đặc yên,
77-     Lực-Sanh ra khỏi, thây liền lạnh tanh.
Gom lại Tim, bao quanh Nguyên-Tử,
Thượng-Trí nơi tích trữ bên trong,
Tế-Bào vẫn sống riêng không,
78-     Xác thân tuy chết, chơn lông mọc hoài.
Chất Thanh-Khí đứng vai thứ Sáu,
Trong Bảy Ngôi cấu tạo trần ai,
Thượng-Thiên bảy cảnh sắp bày,
79-     Nặng nề khí thấp, đẹp thay Khí Trời.
Cõi thứ bảy, chất Hai xấu xí,
Càng lên cao Thanh-Khí càng xinh,
Nhẹ nhàng thanh khiết thăng bình,
80-     Luồng ngang chun thấu, thinh thinh việc Thầy.
Hột Nguyên-Tử hiệp vầy kế cận,
Mà vẫn không hề hấn chạm nhau,
Vì trung tâm điểm thế nào?
81-     Có Thanh-Quang-Khí chun vào luôn luôn.
Đem phân chất hai luồng Nguyên-Tử,
Thấy rõ ràng tích trữ Dương Âm,
Lục-Trung, Dương-Điển qua ngầm,
82-     Cõi trần Thần-Lực, Điểm-Âm luồng vào.
Con đã biết bảy màu Trung-Giái,
Rồi sau đây Mẹ giải con nghe,
Hiểu xong con khá dặt-dè,
83-     Nếu không kềm Tánh, Mẹ e con lầm!
Nếu xấu xí Điển-Âm thì phải,
Rút Khí-Thanh Trung-Giái tuần hườn,
Con người cũng thể nào hơn,
84-     Vía ngang qua xác để hườn Thất-Tinh.
Vía bao cả thân hình thể Xác,
Lớn nở ra, chiếm đoạt Khí-Trung,
Bởi nên những kẻ ác hung,
85-     Trở nên cảm xúc lung tung đủ điều.
Nếu con ở mỹ-miều bác-ái,
Làm việc nhơn, chuyện trái dứt xa,
Vía con cũng nở lớn ra,
86-     Thượng, Trung, hai Khí hiệp hòa kết nên.
Ấy Vía chủ của nền rung động,
Xui người làm nổi sóng phá đời,
Mẹ khuyên con trẻ hết lời,
87-     Làm Thầy cái Vía, nên người thông minh.
Nếu trẻ muốn trọn gìn mối Đạo,
Cảm xúc đều: Chánh Giáo, Chánh Chơn,
Chuyển rung Vía động Chơn-Nhơn,
88-     Ngụ nơi Thượng-Trí thiệt hơn dạy phàm.
Linh-Hồn tạm chia làm bốn thể,
Xác, Phách trần chỉ kể một thôi,
Vía và Trí: rán trau giồi,
89-     Lu lờ Thiên-Tánh, suy tồi phàm nhơn.
Vía: ham, muốn, thương, hờn, tình dục,
Ấy dây oan, cột thúc các con,
Cảm tình cao vọng chẳng còn,
90-     Tâm-Hồn nhơn đạo phải mòn phải lơi.
Bảy lớp Vía, sắp hơi cặn kẻ,
Lúc sanh tiền chẳng rẽ chia nhau,
Đến khi nhắm mắt tường hao,
91-     Việc chi lớn nhỏ, việc nào cũng thông.
Chuyện hành tàng khó hòng sai lở,
Người biết người phải ở cõi nào,
Vài giây hình ấy bạc màu,
92-     Vô tri, vô giác, Hồn vào cảnh mê.
Bảy lớp Vía sẽ về sắp lại,
Nặng bọc ngoài, nhẹ phải vào trong,
Chia phân thứ lớp hợp đồng,
93-     Hiệp cùng Bảy Khí ở trong cõi Trời.
Chất Bảy, Sáu, Năm, thời nặng nhọc,
Khí Ba, Hai, Một, lọc kỹ càng,
Cần nên chỉ vẽ rõ ràng,
94-     Vía phân nặng nhẹ, con tàng Thiên-Cơ.
Nếu tâm trẻ ước mơ chuyện quấy,
Chất Khí-Thanh nổi dậy tản bay,
Vía con khí trược vào thay,
95-     Trám vào lỗ trống, thế rày Khí-Thanh!
Còn trái lại đổi thành Thanh-Khí,
Kẻ tu-hành, Vía, Trí sáng lòa,
Những người tưởng chuyện tà ma,
96-     Vía người u tối, đâu là trò chơi.
Trong Vía có mười nơi bí yếu,
Khí Giái-Trung phản chiếu Chơn-Như,
Đầu tiên ngự tại Vĩ-Lư,
97-     Lặng yên luồng Hỏa, thông tư buổi đầu.
Luồng Hỏa-Hầu bò sâu tới Rún,
Khiến trẻ thơ nao núng lạ thường,
Giác-Quan rung động lẹ bương,
98-     Khác xa cảm giác thông thương Xác Thần.
Rồi nó lại qua lần Lá-Lách,
Thâu Lực-Sanh, trong sạch toàn thân,
Đến đây phải nhớ cho cần,
99-     Vía con xuất được, lâng-bâng cận Trời.
Mở tại Tâm giúp người hiểu đặng,
Tình ý người khuất vắng cảnh trên,
Yết-Hầu bí yếu chớ quên,
100-   Có thâu thì được, nghe rền từng Trung.
Giữa Chơn-Mày mở cùng Thần-Nhãn,
Mọi vật đều tường hản nhỏ to,
Trần gian, trung giái khỏi mò,
101-   Nhìn qua con biết, phân so ít nhiều!
Tại Đảnh Đầu là điều nên nhớ,
Càng hiểu, càng nghe, rõ Nhơn-Trung,
Ngày đêm Trung-Giái dạo cùng,
102-   Chừng về nhập xác, thung dung như thường.
Còn sót lại ba đường bí yếu,
Các con không cần hiểu làm chi,
Giảng ra cũng chẳng ích gì,
103-   Bởi theo Chánh-Giáo điều ni không dùng.
Màn Tinh Khí ngăn cùng nhiều chỗ,
Giữ đừng cho rách đổ Tế-Bào,
Tinh-Thần sẽ bị hư hao,
104-   Con người sau trước thế nào cũng điên.
Trong Xương Sống có xuyên ba lỗ,
Thông Nê-Hườn đến chỗ Vĩ-Lư,
Trong luồn Ba Sợi Gân như,
105-   Chỉ tầm dệt kén, hiệp từ cuối xương.
Tại Vĩ-Lư có thường luồng điển,
Nằm khoanh tròn, hình hiện Rắn Thần,
Điển quang sức mạnh vô ngần,
106-   Ấy nhờ mãnh lực chuyển lần Âm Dương.
Máy tuần hườn phải nương theo đó,
Khi Tham-Thoàn, Điển nhỏ bò lên,
Đường gần chính giữa phía trên,
107-   Tâm-thần xuất ngoại lạc quên cõi ngoài.
Chơn-Tâm ở Thiên-Thai chuyển vọng,
Thông thương cùng khoảng trống Thượng-Thiên,
Càn-Khôn, Võ-Trụ, trần duyên,
108-   Như giòng sông nhỏ thông miền biển khơi.
Thần-Lực ấy con ôi đẹp đẽ,
Tạo-Hóa ban, sau sẽ hườn nguyên,
Không Tu nào rõ phép Tiên,
109-   Chỉ đàng cho trẻ hữu duyên gặp Thầy!
Sự dẫn Hơi-Thở đây chẳng dễ,
Cách có hai hình thể khác nhau,
Ngoại hô-hấp thở Mũi vào,
110-   Bên trong Nội-Tức, phải nào dễ đâu!
Tinh, Khí hòa: luyện thâu Chánh-Khí,
Cầu Minh-Sư dạy chỉ mới nên,
Đổi dời Hô-Hấp chớ quên,
111-   Nếu dùng Nội-Tức đâu nên lẽ thường.
Bầu Tinh Khí khó lường khó chứa,
Nếu Tinh đầy, ít lửa chảy ra,
ít Tinh, nhiều lửa, cạn đa,
112-   Người sanh lãng trí, sao là luyện thân?
Dẫn Hỏa-Hầu năng cần tu kỷ,
Nếu bất thông, con sẽ hại thôi,
Nó là Nước, Lửa, con ôi!
113-   Nóng Thân nếu chuyển, lên rồi khó thay!
Nếu Công-Quả chưa đầy thì chớ,
Dẫn Hỏa-Hầu e lở hại thân,
Đến đâu đốt cháy rần-rần,
114-   Tham-lam, ích-kỷ, tiêu lần ra tro!
Hình Tư-Tưởng là do nơi Trí,
Giồng mây tròn, tụ Khí Bồ-Đề,
Trước khi muốn vẽ nhánh huê,
115-   Các con dụng Trí, tưởng về đóa hoa.
Người Tưởng lành, hóa ra Thiện-Tánh,
Kẻ độc tâm, khó tránh ác lai,
Cội nguồn của phước đức đây,
116-   Luân hồi quả báo, chuyển xây nơi nầy.
Trí ngăn ra nhiều dây nhiều lớp,
Giữ thông đồng hòa-hợp óc người,
Mỗi Tư-Tưởng có ngăn tư,
117-   Người không tấn hóa cũng như lạc đường.
Trí chưa mở, khó tường Chơn-Chánh,
Mất lối đường, khó tránh hành sai,
Trí con hình dạng rõ thay,
118-   Lớn trên, nhọn dưới, tùy tài mỗi con.
Trong Trí có hột tròn lưu Tánh,
Để nhớ ghi, so sánh, nghiệm suy,
Con thông kiếp trước việc chi,
119-   Đã làm, đã nghĩ trong khi luân hồi.
Kẻ học Đạo trau giồi Tư-Tưởng,
Qua Giái-Trung muôn tượng hiệp thành,
Cảm giác, tư tưởng cõi Thanh,
120-   Điều hòa minh bạch, sẵn dành con đây.
Trí của con lại gây hai thứ,
Hạ-Trí cùng Vía-Dữ dục tình,
Khiến làm việc chẳng quang minh,
121-   Các con học Đạo phải gìn phàm nhân.
Thượng-Trí gần Kim-Thân tá túc,
Vẽ điều lành trong lúc Tham-Thiền,
Kết thành Thanh-Khí Trung-Thiên,
122-   Quản cai Hạ-Trí ấy quyền chất Thanh.
Cái Vía thường biến sanh ham muốn,
Trí dèm khôn, lôi cuốn xen vào,
Dầu đèn, Xác Vía, khác nào,
123-   Linh-Đăng quân tử, biết trau hữu dùng.
Sửa Tư-Tưởng phải dùng nhân ái,
Tư-Tưởng hư, đổi lại đẹp xinh,
Từ giờ, từ khắc, xét mình,
124-   Buộc kềm cái Trí vẽ hình xấu xa.
Lương-Năng mở, chánh tà khó thấu,
Con thường hay kể xấu Tánh người,
Còn con làm quấy ai cười?
125-   Mắt rơm chẳng thấy, thấy người sợi lông!
Thường tuổi trẻ ước mong cao vọng,
Làm thợ thuyền, muốn đóng phú gia,
Ngắn tay muốn vói cho xa,
126-   Cổ thì quá thấp, muốn la thấu trời.
Ấy Tư-Tưởng xa vời quá thế,
Thì phải lo kềm chế nó đi,
Tưởng thầm mình phải nghiệm suy,
127-   Nhà cao, xe đẹp, ích gì mà mơ?
Thấy việc trái: giả ngơ, giả điếc,
Việc phải làm: chi xiết vui mừng,
Tưởng điều ích kỷ thì đừng,
128-   Tưởng điều hữu ích, nhơn quần noi theo.
Tư-Tưởng sạch truyền gieo Chơn-Chánh,
Tham, Sân, Si: phải tránh, sớm trừ,
Vẹn gìn hành động tốt tươi,
129-   Nói năng mực thước nên người đó con.
Tánh khiêm hòa, xử tròn Bảy nghiệp,
Giữ Sát-Sanh, giữ kiếp Tà-Dâm,
Vọng-Ngôn, Ý-Ngữ là năm,
130-   Lưỡng-Thiệt, Ác-Khẩu, bực nhân tu hành.
Câu Ngũ-Thường: dễ hành, dễ khép,
Ở công bình, khuôn phép, lễ nghi,
Nghĩa, Nhơn, Lễ, Trí, Tín chi,
131-   Dung hòa mọi vật, khá ghi gắn lòng.

(Hết phần thứ nhì)

Post Author: Ban Biên Tập

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *